I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT:
Gia đình là tế bào của xã hội. Trong mỗi gia đình, các thành viên sống bình đẳng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và không có bạo hành là nền tảng tiến tới một xã hội phát triển bền vững.
Xuất phát từ ý nghĩa gia đình là tổ ấm và thực tiễn đã cho thấy những thành quả phát triển đất nước có được phần lớn từ sự đóng góp của mỗi gia đình; trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng và bảo vệ gia đình. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21 tháng 2 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đề ra mục tiêu “mỗi gia đình Việt nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình, trong đó có vấn đề bạo lực gia đình như Hiến pháp năm 1992, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh Người cao tuổi... Các quy định pháp luật tuy đã đề cập đến các biện pháp bảo vệ gia đình và phòng ngừa bạo lực gia đình, song xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật, thiếu tính cụ thể và chưa có những quy định pháp lý đặc thù.
Trong khi đó, trên thực tế, tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra ngày càng phổ biến ở nhiều nơi, số vụ bạo hành gia đình gây hậu quả nghiêm trọng có chiều hướng tăng cao, tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm và tính mạng của con người xảy ra hàng ngày, chủ yếu đối với phụ nữ và trẻ em. Cứ khoảng 2 - 3 ngày có 1 người bị giết có liên quan đến bạo lực gia đình, nạn nhân của bạo lực gia đình chiếm tỷ lệ khá lớn, trong số 10.608 vụ án xét xử về hôn nhân và gia đình từ năm 2000 - 2005 thì có tới 42% số vụ án ly hôn có nguyên nhân từ bạo lực gia đình... Điều đó không những trái với truyền thống văn hóa tốt đẹp từ ngàn xưa của dân tộc ta mà quan trọng hơn là đã xâm phạm đến quyền con người. Chỉ thị số 49 chỉ rõ “tình hình bạo lực gia đình gia tăng làm ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta” và vì vậy, đấu tranh và tăng cường phòng, chống bạo lực trong gia đình, thực hiện chỉ tiêu giảm tỷ lệ bạo lực gia đình bình quân hàng năm từ 10-15% là nhiệm vụ, mục tiêu đã được xác định rõ trong Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006-2010 và Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010.
Để thực hiện mục tiêu “mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”, vấn đề cần đặt ra là xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ và phòng, chống bạo lực gia đình. Đánh giá đúng vị trí của gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và trước thực trạng bạo lực gia đình đáng báo động như hiện nay thì đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện quan điểm chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện pháp luật về gia đình, trẻ em và chính sách xã hội trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam là đòi hỏi khách quan của thực tiễn.
Chính vì vậy, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua Luật phòng, chống bạo lực gia đình nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình, góp phần củng cố và xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc trong điều kiện hội nhập quốc tế. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2008.
Luật phòng, chống bạo lực gia đình được xây dựng dựa trên những quan điểm chỉ đạo sau:
1. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề gia đình; làm rõ chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; góp phần củng cố và xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
2. Phát huy vai trò cá nhân, gia đình và cộng đồng trong phòng, chống bạo lực gia đình; chú trọng các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình tại cộng đồng, kịp thời phát hiện sớm và có giải pháp ngăn chặn, răn đe hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân, tránh để xảy ra bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Bảo đảm quyền con người, nhất là đối tượng yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người già, ưu tiên nguyện vọng chính đáng của nạn nhân; đồng thời tôn trọng các quyền của công dân khi xử lý các hành vi vi phạm về bạo lực gia đình.
4. Phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam và đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế, nhất là Công ước về chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và Công ước về quyền trẻ em.
Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương với 46 điều. Trong đó:
Chương I - Những quy định chung gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8) quy định phạm vi điều chỉnh; các hành vi bạo lực gia đình; nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình; hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; những hành vi bị nghiêm cấm.
Chương II- Phòng ngừa bạo lực gia đình có 3 mục, 9 điều (từ Điều 9 đến Điều 17), bao gồm các quy định về thông tin, tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình; hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; tư vấn, góp ý và phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình.
Chương III- Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình gồm 2 mục với 13 điều (từ Điều 18 đến Điều 30), quy định các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình và việc trợ giúp nạn nhân của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình và địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.
Chương IV- Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình có 11 điều (từ Điều 31 đến Điều 41), quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan và tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Chương VI- Điều khoản thi hành gồm 2 điều (Điều 45 và Điều 46) quy đinh hiệu lực thi hành của Luật này và hướng dẫn thi hành Luật.
IV. NHỮNG NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA LUẬT:
1. Phạm vi điều chỉnh:
Theo Điều 1, Luật này điều chỉnh vấn đề phòng ngừa bạo lực gia đình; bảo vệ hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
2. Các hành vi bạo lực gia đình:
Luật định nghĩa bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Quy định này nhằm tạo cơ sở phân biệt với hành vi bạo lực khác cũng như để xác định trách nhiệm và xử lý vi phạm trong bạo lực gia đình.
Để xác định một hành vi là hành vi bạo lực gia đình, căn cứ vào 2 điều kiện:
- Một là yếu tố “lỗi cố ý”, tức là không phải bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong gia đình cũng được coi là bạo lực gia đình;
- Hai là người bị tổn hại là thành viên gia đình, đó là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Các thành viên của gia đình khi đã ly hôn hoặc trong quan hệ hôn nhân thực tế cũng được áp dụng quy định của Luật này. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của Luật đối với các trường hợp này không nhằm mục đích khuyến khích hoặc tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa những người không đăng ký kết hôn mà sống chung như vợ chồng; ở đây cần hiểu quy định như vậy có ý nghĩa đảm bảo cho tất cả nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình được hỗ trợ và bảo vệ đặc biệt.
Các hành vi bạo lực gia đình gồm có 4 nhóm chính:
- Nhóm 1: nhóm hành vi bạo lực về thể chất: bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng.
- Nhóm 2: nhóm hành vi bạo lực về tinh thần: bao gồm các hành vi lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở; cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
- Nhóm 3: nhóm hành vi bạo lực về kinh tế: bao gồm chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính.
- Nhóm 4: hành vi bạo lực về tình dục: là hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục.
3. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình:
- Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.
- Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình:
Theo Điều 4 của Luật này, người có hành vi bạo lực gia đình có 4 nghĩa vụ sau:
- Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực;
- Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
- Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối;
- Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.
5. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình:
Nạn nhân bạo lực gia đình là người bị tổn hại về sức khỏe, tính mạng, bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm và các tổn hại khác do hành vi bạo lực gia đình gây ra.
Việc quy định các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình nhằm hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân. Các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
- Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc;
- Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
- Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật;
- Có các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Đồng thời với việc được những hưởng quyền nêu trên, nạn nhân bạo lực gia đình phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.
6. Những hành vi bị nghiêm cấm:
Điều 8 của Luật này nghiêm cấm 8 nhóm hành vi sau:
- Các hành vi bạo lực gia đình thuộc 4 nhóm nêu tại mục IV.2;
- Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình.
- Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình.
- Trả thù, đe dọa trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
- Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
- Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật.
- Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.
7. Phòng ngừa bạo lực gia đình:
Phòng ngừa bạo lực gia đình nhằm tránh những hậu quả, thiệt hại có thể xảy ra khi có hành vi bạo lực gia đình. Luật quy định các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình bao gồm:
- Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình: nhằm mục đích thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.
+ Việc thông tin, tuyên truyền phải đảm bảo chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo; không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình.
+ Nội dung thông tin, tuyên truyền tập trung vào: chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình; truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt nam; tác hại của bạo lực gia đình; biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình; kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình văn hóa và các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.
+ Hình thức thông tin, tuyên truyền: thực hiện trực tiếp; thông qua phương tiện thông tin đại chúng; lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hóa quần chúng khác.
- Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình:
+ Hòa giải mâu thuẫn giữa các thành viên gia đình là trách nhiệm gia đình, người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; của cơ quan, tổ chức nơi công tác hoặc sinh sống của các thành viên gia đình; tổ hòa giải ở cơ sở. Việc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp tuân thủ 7 nguyên tắc quy định tại Điều 12.
+ Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức hòa giải ở cơ sở thực hiện hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.
- Tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình:
+ Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư, trong đó tập trung vào các đối tượng: người có hành vi bạo lực gia đình; nạn nhân bạo lực gia đình; người nghiện rượu, ma túy, đánh bạc; người chuẩn bị kết hôn.
+ Các nội dung tư vấn chủ yếu là cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.
+ Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư nhằm làm chuyển biến nhận thức của người có hành vi bạo lực gia đình để họ không tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, biện pháp góp ý, phê bình chỉ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hòa giải mà tiếp tục vi phạm. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này là người đứng đầu cộng đồng dân cư (trưởng thôn, làng, bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố) hoặc người đứng đầu đơn vị.
+ Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người đứng đầu cộng đồng dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình.
8. Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình:
Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình được thực hiện thông qua:
* Các biện pháp bảo vệ, ngăn chặn như: phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình; cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình; các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình (cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân).
Đối với biện pháp cấm tiếp xúc nạn nhân bạo lực gia đình: đây không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính và chỉ được áp dụng trong trường hợp gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân nhằm bảo vệ nạn nhân, phòng ngừa hậu quả nghiêm trọng hơn nữa có thể xảy ra.
- Về điều kiện được áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc, gồm 3 điều kiện sau:
+ Nạn nhân bị tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng.
+ Có đơn yêu cầu của nạn nhân, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình.
+ Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc.
- Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp này là: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình; Tòa án đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình.
- Về thời hạn áp dụng: tối đa 3 ngày đối với trường hợp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã áp dụng, không quá 4 tháng đối với trường hợp do Tòa án áp dụng.
- Về hủy hỏ quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc: khi có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình hoặc khi người ra quyết định cấm tiếp xúc nhận thấy biện pháp này không còn cần thiết.
- Về trình tự, thủ tục áp dụng: việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc và xử lý người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ được thực hiện theo quy định của Chính phủ; còn trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp này thuộc thẩm quyền của Tòa án thì được thực hiện tương tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
* Chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
* Tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình về chăm sóc sức khỏe, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình.
* Hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu và nơi tạm lánh.
Ngoài ra, Luật còn quy định về cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình: là nơi chăm sóc, tư vấn, tạm lánh, hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho họ. Các cơ sở này gồm cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình và địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.
9. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng chống bạo lực gia đình:
- Cá nhân có trách nhiệm chấp hành pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội; ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
- Gia đình có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện các biện pháp khác phòng, chống bạo lực gia đình.
- Các tổ chức đoàn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, tham gia phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình và tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
10. Quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp, thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Hàng năm, trong báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã trước Hội đồng nhân dân cùng cấp về tình hình kinh tế - xã hội phải có nội dung về tình hình và kết quả phòng, chống bạo lực gia đình tại địa phương.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Cơ quan được giao nhiệm vụ chuẩn bị văn bản sớm trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành trước ngày Luật có hiệu lực thi hành; xây dựng kế hoạch triển khai, tuyên truyền và thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia đình trong cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động thuộc mình quản lý và các tầng lớn nhân dân./.
Dữ liệu đang được cập nhật
Truy cập: 740623
Trực tuyến: 14
Hôm nay: 274